Tiểu luận Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Về nguyên nhân nhận thức: Ngoài trường hợp một số điều tra viên có trình độ thấp hơn luật sư nên mặc cảm rằng luật sư vào là “lắm điều nhiều lẽ” còn có trường hợp các điều tra viên không nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ tố tụng của mình là phải tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ thực hiện quyền bào chữa. Như đã nói ở trên, quyền bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, đối với nhiệm vụ chung của TTHS do vậy quyền này được nhà nước bảo đảm (Điều 132 Hiến pháp 1992 sửa đổi). BLTTHS năm 2003 đã cụ thể hóa nội dung này của Hiến pháp thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS – nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11) với quy định “Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của BLTTHS”. Nguyên tắc này còn thể hiện trong các quy định về nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng khi tống đạt quyết định khởi tố bị can và khi hỏi cung phải giải thích cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ về các quyền, nghĩa vụ của họ trong đó có quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa (Điều 126 và Điều 131 BLTTHS năm 2003), nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử người bào chữa trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003. Một bên có quyền bào chữa thì đương nhiên bên kia phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền đó. Khi đã là nghĩa vụ do luật định thì đấy là điều mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ, phải thực hiện, không có lựa chọn nào khác.

Về nguyên nhân nhận thức: Ngoài trường hợp một số điều tra viên có trình độ thấp hơn luật sư nên mặc cảm rằng luật sư vào là “lắm điều nhiều lẽ” còn có trường hợp các điều tra viên không nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ tố tụng của mình là phải tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ thực hiện quyền bào chữa. Như đã nói ở trên, quyền bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, đối với nhiệm vụ chung của TTHS do vậy quyền này được nhà nước bảo đảm (Điều 132 Hiến pháp 1992 sửa đổi). BLTTHS năm 2003 đã cụ thể hóa nội dung này của Hiến pháp thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS – nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11) với quy định “Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của BLTTHS”. Nguyên tắc này còn thể hiện trong các quy định về nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng khi tống đạt quyết định khởi tố bị can và khi hỏi cung phải giải thích cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ về các quyền, nghĩa vụ của họ trong đó có quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa (Điều 126 và Điều 131 BLTTHS năm 2003), nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử người bào chữa trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003. Một bên có quyền bào chữa thì đương nhiên bên kia phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền đó. Khi đã là nghĩa vụ do luật định thì đấy là điều mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ, phải thực hiện, không có lựa chọn nào khác.

TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC

TIN KHUYẾN MÃI

  • Thư viện tài liệu Phong Phú

    Hỗ trợ download nhiều Website

  • Nạp thẻ & Download nhanh

    Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay

  • Nhận nhiều khuyến mãi

    Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay

NẠP THẺ NGAY